Ung thư cổ tử cung là bệnh nguy hiểm thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Để điều trị, bác sĩ thường tiến hành xạ trị cho người bệnh theo 2 giai đoạn là xạ trị bên ngoài và xạ trị bên trong. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có thể gây ra một số tác dụng phụ không mong muốn. Vậy những tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung là gì?
Xạ trị ung thư cổ tử cung
Xạ trị liệu trong điều trị ung thư cổ tử cung sử dụng tia X hoặc các tia mang năng lượng cao nhằm tiêu diệt và loại bỏ các tế bào ung thư ra khỏi cơ thể. Đây là một trong những phương pháp điều trị chính thường được bác sĩ chỉ định trong phác đồ chữa trị. Trong một vài giai đoạn bệnh, xạ trị là phương pháp tốt nhất, người bệnh sẽ được xạ trị đơn thuần hoặc tiến hành phẫu thuật trước khi xạ trị.
Xạ trị cũng có thể được kết hợp với các phương pháp khác để làm tăng hiệu quả điều trị bệnh như hóa xạ trị (hóa trị đồng thời) giúp hóa trị bức xạ hoạt động tốt hơn. Trong trường hợp ung thư cổ tử cung di căn hoặc tái phát sau khi điều trị, xạ trị liệu sẽ được sử dụng để điều trị nhằm ức chế sự phát triển và di căn của các tế bào ung thư.
Có 2 loại xạ trị thường được sử dụng trong điều trị ung thư là xạ trị chùm bên ngoài và xạ trị bên trong. Loại nào cũng có thể gây ra những tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung với mức độ nghiêm trọng khác nhau.
Xạ trị ung thư cổ tử cung chùm bên ngoài
Xạ trị chùm bên ngoài được thực hiện tương tự như chụp X-quang ung thư từ một máy bên ngoài cơ thể nhưng với liều lượng bức xạ mạnh hơn. Mỗi đợt xạ trị chỉ kéo dài trong khoảng vài phút và không gây đau đớn cho người bệnh.
Xạ trị bên trong thường được kết hợp với hóa trị liều thấp (cisplatin) thực hiện trong 5 ngày/tuần và kéo dài trong 5 tuần. Hóa trị thường được thực hiện vào các thời điểm đã định trong quá trình bệnh nhân tiến hành xạ trị.
Trong trường hợp người bệnh không đủ sức khỏe, không thể chịu đựng được hóa chất, không thể thực hiện phẫu thuật thì xạ trị chính là phương pháp điều trị chính nhằm ngăn ngừa sự lây lan của các tế bào ung thư.
Các tác dụng phụ ngắn hạn của xạ trị chùm bên ngoài có thể xảy ra là:
- Mệt mỏi, bụng khó chịu.
- Tiêu chảy hoặc phân lỏng (nếu bức xạ được chiếu vào xương chậu hoặc bụng).
- Buồn nôn, ói mửa, da kích ứng (đỏ nhẹ đến bong tróc hoặc bong tróc).
- Viêm bàng quang do bức xạ: bức xạ đến khung chậu có thể gây kích thích bàng quang (viêm bàng quang do bức xạ) gây khó chịu, muốn đi tiểu thường xuyên và đôi khi có máu trong nước tiểu.
- Đau âm đạo: bức xạ có thể làm cho âm hộ và âm đạo nhạy cảm hơn và đau đớn, đôi khi gây chảy dịch.
- Thay đổi kinh nguyệt: bức xạ vùng chậu có thể ảnh hưởng đến buồng trứng, dẫn đến thay đổi kinh nguyệt và thậm chí mãn kinh sớm.
- Công thức máu thấp: thiếu máu (lượng hồng cầu thấp) có thể khiến người bệnh cảm thấy mệt mỏi. Giảm bạch cầu trung tính (lượng bạch cầu thấp) làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng. Giảm tiểu cầu (lượng tiểu cầu thấp) làm tăng nguy cơ chảy máu.
Khi hóa trị cùng với bức xạ, công thức máu có xu hướng thấp hơn và mệt mỏi và buồn nôn có xu hướng tồi tệ hơn. Tuy nhiên, những tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung trong trường hợp này thường cải thiện trong vài tuần sau khi ngừng điều trị.
Xạ trị bên trong ung thư cổ tử cung
Liệu pháp xạ trị bên trong được thực hiện bằng cách đưa một nguồn bức xạ đến gần khối u ung thư. Loại bức xạ này chỉ truyền đi được một quãng đường ngắn bằng cách đặt thiết bị bên trong âm đạo hoặc ở cổ tử cung. Phương pháp này thường được sử dụng sau khi người bệnh được chiếu bức xạ chùm ngoài và hiếm khi được áp dụng cho bệnh nhân ung thư cổ tử cung trong giai đoạn đầu.
Có 2 loại liệu pháp xạ trị bên trong để điều trị ung thư cổ tử cung bao gồm:
- Liệu pháp điều trị chậm tốc độ liều thấp (LDR) được thực hiện trong vài ngày, người bệnh sẽ được nằm trên giường trong phòng riêng của bệnh viện với các dụng cụ giữ chất phóng xạ tại chỗ. Trong khi xạ trị được thực hiện, nhân viên bệnh viện sẽ chăm sóc sức khỏe và thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhiễm xạ cho người bệnh.
- Liệu pháp điều trị bằng tốc độ liều cao (HDR) được thực hiện cho bệnh nhân ngoại trú trong nhiều lần điều trị (thường cách nhau ít nhất một tuần). Đối với mỗi lần điều trị liều cao, chất phóng xạ được đưa vào trong vài phút và sau đó được lấy ra. Ưu điểm của phương pháp này là người bệnh không phải nằm viện hoặc nằm yên trong thời gian dài.
Để điều trị ung thư cổ tử cung cho những phụ nữ đã từng thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tử cung, chất phóng xạ được đặt vào một ống trong âm đạo. Để điều trị cho một phụ nữ vẫn còn tử cung, chất phóng xạ có thể được đặt trong một ống kim loại nhỏ (ống nối) đi trong tử cung cùng với các ống giữ bằng kim loại tròn nhỏ (hình trứng) được đặt gần cổ tử cung.
Tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung bên trong được chia làm 2 nhóm ngắn hạn và dài hạn. Các tác dụng phụ ngắn hạn có thể xảy ra như sau:
- Vì bức xạ chỉ truyền đi một đoạn ngắn và tác động chính lên cổ tử cung, âm đạo nên có thể gây kích ứng âm đạo hoặc âm hộ. Người bệnh sẽ cảm thấy đau hoặc chảy dịch.
- Xạ trị bên trong có thể gây ra nhiều tác dụng phụ giống như xạ trị chùm bên ngoài như mệt mỏi, tiêu chảy, buồn nôn, kích thích bàng quang và công thức máu thấp. Thường thì liệu pháp bên trong sẽ được thực hiện ngay sau khi bức xạ tia bên ngoài (trước khi các tác dụng phụ có thể biến mất), vì vậy khó có thể biết được loại điều trị nào đang gây ra tác dụng phụ cho người bệnh.
Các tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung lâu dài từ vài tháng đến nhiều năm sau khi điều trị là:
- Hẹp âm đạo: xạ trị có thể làm hình thành mô sẹo trong âm đạo, ít có khả năng co giãn hoặc có thể làm cho phụ nữ cảm thấy đau đớn khi quan hệ tình dục. Để cải thiện tình trạng này, người bệnh có thể kéo giãn các thành âm đạo bằng cách sử dụng dụng cụ làm giãn âm đạo (một ống nhựa hoặc cao su được sử dụng để kéo dài âm đạo) hoặc quan hệ tình dục thường xuyên.
- Tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung – khô âm đạo: là tác dụng phụ lâu dài của bức xạ. Estrogen được sử dụng tại chỗ có thể giúp giảm khô âm đạo và thay đổi niêm mạc âm đạo, đặc biệt nếu bức xạ vùng chậu làm tổn thương buồng trứng và gây ra mãn kinh sớm. Những nội tiết tố này thường được sử dụng trong âm đạo và được hấp thụ vào vùng sinh dục thay vì uống. Chúng có các dạng gel, kem, vòng và viên nén.
- Chảy máu trực tràng/hẹp trực tràng: xạ trị vào thành trực tràng có thể gây viêm mãn tính khu vực này có thể dẫn đến chảy máu và đôi khi hẹp trực tràng có thể gây đau đớn. Một lỗ hổng bất thường (được gọi là lỗ rò) cũng có thể hình thành giữa trực tràng và âm đạo, khiến phân ra ngoài âm đạo. Những vấn đề này thường xảy ra trong 3 năm đầu tiên sau khi điều trị bằng bức xạ. Các phương pháp điều trị bổ sung như phẫu thuật có thể khắc phục được những biến chứng này.
- Các vấn đề về tiết niệu: xạ trị khu vực khung chậu có thể gây ra viêm bàng quang mãn tính, tiểu ra máu hoặc xuất hiện một lỗ bất thường giữa bàng quang và âm đạo (gọi là lỗ rò). Những tác dụng phụ này có thể được nhìn thấy nhiều năm sau khi xạ trị.
- Xương suy yếu: Xạ trị vùng khung xương chậu có thể làm yếu xương, dẫn đến gãy xương. Gãy xương hông là trường hợp phổ biến nhất và có thể xảy ra từ 2 đến 4 năm sau khi xạ trị. Chính vì vậy mà người bệnh nên kiểm tra mật độ xương để theo dõi nguy cơ gãy xương.
- Sưng chân: nếu các hạch bạch huyết vùng chậu được điều trị bằng bức xạ, nó có thể dẫn đến các vấn đề về thoát dịch ở chân. Điều này có thể khiến chân sưng tấy nghiêm trọng gọi là phù bạch huyết .
Trên đây là các tác dụng phụ của xạ trị ung thư cổ tử cung có thể xảy ra sau quá trình điều trị. Người bệnh sau khi kết thúc quá trình bức xạ, nên theo dõi sức khỏe thường xuyên, nếu gặp bất kỳ triệu chứng bất thường nào nên báo ngay với bác sĩ để được chữa trị kịp thời.